(trang 53 sgk Lịch Sử 12): - Nêu nội dung cơ bản của những cải cách dân chủ ở Nhật Bản trong thời kỳ bị chiếm đóng?
Trả lời:
Về chính trị: Bộ Chỉ huy tối cao lực lượng Đồng Minh đã loại bổ chủ nghĩa quân phiệt và bộ máy chiến tranh của Nhật Bản. Hiến pháp mới do SCAP tổ chức soạn thảo, quy định Nhật Bản là nước quân chủ lập hiến, nhưng thực chất là theo chế độ dân chủ đại nghị tư sản.
Về kinh tế: SCAP thực hiện ba cuộc cải cách lớn (thủ tiêu chế độ tập trung kinh tế; tiến hành cải cách ruộng đất; dân chủ hóa lao động).
(trang 53 sgk Lịch Sử 12): - Liên minh Nhật-Mĩ được thể hiện như thế nào?
Trả lời:
- Nhật sớm ký kết được Hiệp ước hòa bình Xan Phranxixcô chấm dứt chế độ chiếm đóng của đồng minh.
- Hiệp ước an ninh Mĩ- Nhật được ký kết, đặt nền tảng cho quan hệ đối ngoại giữa hai nước. Nhật Bản chấp nhận đứng dưới “chiếc ô” bảo hộ hạt nhân của Mĩ, để cho Mĩ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản.
(trang 55 sgk Lịch Sử 12): - Những nhân tố nào thúc đẩy sự phát triển “thần kì” của kinh tế Nhật Bản?
Trả lời:
- Con người được coi là nhân tố quan trọng nhất ở Nhật Bản. Người dân Nhật Bản cần cù, có tính kỉ luật cao trong lao động.
- Vai trò lãnh đạo, quản lí có hiệu quả của Nhà nước.
- Các công ti của Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lí tốt nên có tiềm lực và khả năng cạnh tranh cao.
- Nhật Bản biết cách áp dụng các thành tựu khoa học-kĩ thuật hiện đại để nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm.
- Chi phí cho Quốc phòng của Nhật Bản rất thấp, có điều kiện để tập trung để phát triển kinh tế.
- Nhật Bản đã tận dụng tốt các yếu tố bên ngoài để phát triển kinh tế.
(trang 55 sgk Lịch Sử 12): - Hãy nêu những khó khăn đối với sự phát triển kinh tế ở Nhật Bản.
Trả lời:
- Lãnh thổ Nhật Bản không rộng, tài nguyên khoáng sản rất nghèo nàn, nền công nghiệp của Nhật Bản hầu như phụ thuộc vào các nguồn nguyên nhiên liệu, nhập khẩu từ bên ngoài.
- Cơ cấu vùng kinh tế của Nhật Bản thiếu cân đối, tập trung chủ yếu vào ba trung tâm là Tôkiô, Ôxaca và Nagôia, giữa nông nghiệp và công nghiệp cũng có sự mất cân đối.
- Nhật Bản luôn gặp sự cạnh tranh quyết liệt của Mĩ, Tây Âu...
Đây đều là những khó khăn đối với sự phát triển kinh tế của Nhật Bản.
(trang 56 sgk Lịch Sử 12): - Chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong những năm 1973-1991 như thế nào?
Trả lời:
Từ những năm 1970, Nhật Bản đã bắt đầu đưa ra chính sách đối ngoại mới, thể hiện trong học thuyết Phucưđa và học thuyết Kaiphu. Nội dung chủ yếu của các học thuyết trên là tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và tổ chức ASEAN.
(trang 57 sgk Lịch Sử 12): - Nêu những nét cơ bản về tình hình kinh tế và chính trị của Nhật Bản trong thập kỉ 90 của thế kỉ XX.
Trả lời:
Từ thập kỉ 90, Nhật Bản bắt đầu bước vào thời kì suy thoái, tuy nhiên Nhật Bản vẫn duy trì là một trong ba trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới.
Về khoa học-kĩ thuật: Tính đến năm 1992, Nhật Bản đã phóng 49 vệ tinh khác nhau và hợp tác có hiệu quả với Mĩ, Liên Xô.
Văn hóa: Nhật Bản vẫn luôn giữ được những giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa của mình.
Chính trị: Từ năm 1993-2000, chính quyền Nhật Bản thuộc về các Đảng đối lập hoặc liên minh các Đảng phái khác nhau.
Đối ngoại: Nhật Bản tiếp tục liên minh chặt chẽ với Mĩ.
Câu 1 (trang 57 sgk Sử 12):Những yếu tố nào khiến Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới vào nửa cuối thế kỉ XX.
Lời giải:
- Con người được coi là nhân tố quan trọng nhất ở Nhật Bản. Người dân Nhật Bản cần cù, có tính kỉ luật cao trong lao động.
- Vai trò lãnh đạo, quản lí có hiệu quả của Nhà nước.
- Các công ti của Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lí tốt nên có tiềm lực và khả năng cạnh tranh cao.
- Nhật Bản biết cách áp dụng các thành tựu khoa học-kĩ thuật hiện đại để nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm.
- Chi phí cho Quốc phòng của Nhật Bản rất thấp, có điều kiện để tập trung để phát triển kinh tế.
- Nhật Bản đã tận dụng tốt các yếu tố bên ngoài để phát triển kinh tế.
Câu 2 (trang 57 sgk Sử 12):Khái quát chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến năm 2000.
Lời giải:
Một trong những đặc điểm lớn nhất trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ sau năm 1945 là luôn cố gắng liên minh chặt chẽ với Mĩ. Bên cạnh đó, bước sang thời kì 1973-1991, Nhật Bản bắt đầu tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và tổ chức ASEAN.